Hội chứng tư thế thấp ở gia cầm như gà và chim cút hay còn được gọi là EDS với tên viết tắt của nó trong tiếng Anh ( egg drog syndrome ) là một bệnh do vi rút gây ra bởi vi rút Pneumovirus . Bất kỳ loài thủy sản, gia cầm hoặc chim đẻ trứng nào cũng có thể bị ảnh hưởng, nhưng nó phổ biến nhất ở gà đẻ và biểu hiện là tỷ lệ sản xuất trứng giảm mạnh lên đến 50% .
Virus này thuộc nhóm adenovirus hemagglutinating , gây ra các vấn đề ở cấp độ sản xuất, chẳng hạn như số lượng trứng và chất lượng vỏ thấp.
NGUỒN GỐC CỦA HỘI CHỨNG TƯ THẾ THẤP Ở GIA CẦM
Hội chứng tư thế thấp ở gia cầm được phát hiện vào năm 1976 (đó là lý do tại sao nó còn được gọi là EDS76) ở Ireland, chỉ ảnh hưởng đến những con chim cái trưởng thành . Virus này tập trung ở tử cung, cụ thể là ở tuyến cascara.
Avian adenovirus gây ra hội chứng xệ lông phân bố rộng rãi ở tất cả các vùng địa lý và trên tất cả các loại gia cầm hoặc gia cầm thương phẩm. Tuy nhiên, nhờ có vắc-xin, căn bệnh này gần như được kiểm soát hoàn toàn và vì lý do này mà nhiều chuyên gia từ nhiều công ty chưa bao giờ thấy bùng phát bệnh viêm gan với các cơ quan bao gồm và cho rằng đây là lý do tại sao những vi rút này không tồn tại trong công ty của họ.
Mặc dù đây là một bệnh hiếm gặp ở các trang trại và trại sản xuất giống, nhưng trong những năm qua đây là một trong những mối quan tâm chính trong ngành công nghiệp trứng nâu và cả những người chăn nuôi gà thịt.
Hiện nay bệnh này được coi là ít quan trọng vì các trang trại đã liên tục tiêm phòng và trong nhiều thời kỳ cả gà đẻ và gà đẻ, do đó hội chứng này về cơ bản được kiểm soát nhờ vào việc tiêm vắc-xin giúp tăng khả năng phòng vệ của hệ thống miễn dịch, vì nó không đó là một loại vắc-xin chống lại vi-rút EDS .
NGUYÊN NHÂN VÀ CÁC GIAI ĐOẠN CỦA HỘI CHỨNG
Các dấu hiệu nhận biết gà mái bị nhiễm hội chứng đẻ thấp có thể bắt đầu từ 9 đến 20 ngày . Tùy thuộc vào các yếu tố môi trường và hình thái sinh lý. Các nguyên nhân gây ra bệnh lý gia cầm này có thể khác nhau, nhưng nó luôn bao hàm việc kiểm soát lịch tiêm phòng kém, thiếu vệ sinh và quản lý gia cầm.
Những con gà mái bị bệnh nặng nhất là những giống nặng và bán nặng, những con nhẹ thì ít mắc bệnh hơn. Nhiễm trùng được tìm thấy ở các loài thủy cầm như vịt và ngỗng, nhưng chúng phát bệnh (không có triệu chứng).
Các con đường lây lan chính:
- Bởi phân bị ô nhiễm.
- Qua tiếp xúc trực tiếp với thiết bị, nước, thực phẩm hoặc động vật bị ô nhiễm.
- Hít phải khu vực nhiễm bệnh (nhà kín).
- Tác nhân gây bệnh có thể được phân phối qua các khu vực khác nhau bởi nhân viên bị ô nhiễm.
- Chim hoang dã không liên quan đến trại giống.
CÁC GIAI ĐOẠN HỘI CHỨNG:
- Con chim bị nhiễm bệnh: Con gà mái bị ô nhiễm bởi không khí hoặc vật liệu bị nhiễm bệnh.
- Sự nhân lên của virus trong niêm mạc: Ngay sau khi nhiễm bẩn, sự nhân lên hạn chế trong niêm mạc mũi của động vật.
- Nhiễm virut huyết thoáng qua: Sau 4 ngày, virut huyết tổng quát và thoáng qua bắt nguồn từ mô bạch huyết, lá lách và tuyến ức.
- Di chuyển về phía vòi trứng: từ 7 đến 20 ngày sau, có sự di chuyển về phía các tuyến của ống dẫn trứng và sự nhân lên ồ ạt của vi rút xảy ra ở khu vực này.
- Rụng trứng: từ 9 đến 20 ngày sau khi nhiễm bệnh, gà mái bắt đầu giảm đáng kể việc sản xuất trứng và những con nó đẻ ra có thể bị biến dạng về hình dạng hoặc độ cứng của vỏ.
Cũng nên biết các yếu tố khác có thể gây giảm số lượng trứng gà .
TRIỆU CHỨNG
Các triệu chứng của bệnh lý gia cầm rất rõ ràng và xuất hiện ít nhất 9 ngày sau khi nhiễm bệnh , khi hội chứng là không thể tránh khỏi và tôi có thể đã lây nhiễm cho những con gà khác.
Các dấu hiệu thường gặp nhất là:
- Sản lượng trứng thấp , từ 6% đến 50%.
- Vỏ hình chữ nhật
- Vỏ không có độ cứng cần thiết.
- Có thể bị tiêu chảy nhẹ.
- Chúng giảm tiêu thụ thức ăn.
- Họ ít di chuyển hơn.
Trong nhiều trường hợp, những con chim trông khỏe mạnh, chúng không bị tiêu chảy và lượng thức ăn chúng tiêu thụ không thay đổi nhiều. Do đó, hội chứng tư thế thấp dễ nhận thấy hơn khi sản lượng trứng giảm, có thể giảm tới 50% . Sự giảm này xảy ra 13-16 ngày sau khi nhiễm bệnh và có thể kéo dài 6-12 tuần rồi bình thường hóa hoặc gà mái không bao giờ hồi phục.
Ngoài sản lượng thấp, còn có những vấn đề trong vỏ như:
- Vỏ quan trọng.
- Vỏ mỏng hoặc mềm.
- Trứng không có vỏ, (trứng trong bột).
- Trứng thiếu sắc tố màu nâu.
- Giảm kích thước của trứng.
- Ruột trứng của những quả trứng này có thể chảy nước và phần đặc đôi khi có màu đục.
ĐIỀU TRỊ
Hiện tại không có phương pháp điều trị EDS thành công 100% , tuy nhiên, gà mái có thể phục hồi bằng thức ăn, vệ sinh và chăm sóc bằng vitamin, và có thể đạt giá trị bình thường trong 6 đến 12 tuần.
Ở gà đẻ, sự thay lông gây ra sẽ phục hồi sản lượng trứng sau một đợt nhiễm EDS.
Điều trị phục hồi: Ở các nước đã chẩn đoán bệnh, các biện pháp điều trị và phòng ngừa EDS 76 cần hướng tới việc duy trì các biện pháp quản lý và vệ sinh, củng cố chế độ ăn và lựa chọn những con gia cầm bị bệnh; chim thường hồi phục trong vòng 6 tuần.
Chủng ngừa
Cho đến nay vẫn chưa có vắc xin phòng ngừa hoặc loại bỏ vi rút từ chim, tuy nhiên nhiều phòng thí nghiệm, bao gồm cả Intervet, đã phát triển vắc xin bất hoạt sử dụng vi rút BC-14 (Nov-Vac –EDS-76) làm cơ sở để bất hoạt vi rút. với formaldehyde và lơ lửng trong pha nước của nhũ tương tá dược.
Vắc xin này đã được khuyến cáo sử dụng trước thời kỳ được đặt tốt nhất là từ 14-18 tuần tuổi bằng đường tiêm dưới da hoặc tiêm bắp.
Việc chủng ngừa là cần thiết đối với những người phối giống và các lứa, sau đó sẽ sắp xếp việc chủng ngừa lại.
Vắc-xin BC-14 bất hoạt bảo vệ gia cầm chống lại các tác động do nhiễm vi-rút độc lực gây ra và kích thích kháng thể, xuất hiện sau 15 ngày sau khi tiêm chủng đạt mức tối đa sau 30 ngày.
Kháng thể của mẹ có trong gà con, chúng có thời gian bán hủy là 3 ngày và biến mất vào tuần thứ tư.
Xem thêm: CÁC BỆNH THƯỜNG GẶP CỦA CHIM CÚT